Những ngày bố ốm nặng, họa sĩ Nguyễn Thu Thủy – tác giả Con đường gốm sứ ven sông Hồng đã đọc lại những cuốn sách của cha để chia sẻ cùng ông những kỷ niệm về các nhân vật cùng những nét đẹp văn hóa, phong tục tập quán của các nhân vật trong tác phẩm.
Dù là viết về chiến tranh biên giới năm 1979, hay viết về cuộc chiến chống phản động Fulro ở Tây Nguyên, các trang viết của ông luôn toát lên tinh thần lãng mạn, lạc quan cách mạng và tư tưởng đại đoàn kết dân tộc hết sức nhân văn.
Tốt nghiệp khoa Văn Đại học Tổng hợp năm 1967, nhà báo Nguyễn Trung Đông về báo Nhân Dân làm việc một mạch 44 năm cho đến khi nghỉ hưu năm 2011. Ông nguyên là Trưởng Ban Văn xã, Ủy viên Ban Biên tập của báo Nhân dân.
Dũng cảm, xông xáo, nhà báo Trung Đông đã từng có mặt ở tuyến lửa khu 4: Nghệ An, Thanh Hóa, Quảng Bình, Vĩnh Linh những năm trước giải phóng; đã từng có mặt ở Lào Cai, Cao Bằng, Lạng Sơn trong những ngày chiến tranh biên giới ác liệt năm 1979.
Chia sẻ về cha, họa sĩ Nguyễn Thu Thủy nghẹn ngào: “Bố mình kể, có lần đã suýt chết khi bám theo đoàn xe chở xăng vào chiến trường biên giới. Nhiều người bạn khoa Văn của bố đã hy sinh trong trận chiến Tết Mậu Thân 1968. Anh trai của bố và là bác mình - nhà văn Hồ Phương, khi đó làm bên Tạp chí Văn nghệ Quân đội, sau này là Tổng Biên tập Tạp chí Văn nghệ quân đội và được phong là Nhà văn Thiếu tướng. Bố mình học cùng lớp với bác Nguyễn Phú Trọng”.
Nhà báo Trung Đông đã từng là phóng viên thường trú Nghệ An những năm chiến tranh khốc liệt 1970-1972. Có lần ở Nghệ An, ông đạp xe cả trăm cây số đến Đô Lương vì nghe tin ở đó bắn hạ được máy bay Mỹ và có tù binh phi công mà ông muốn phỏng vấn. Đoàn Hà Nội vào bổ sung lực lượng khi đó có nhà báo Phạm Thanh vẫn còn nhớ kể lại đã gặp nhà báo Trung Đông đạp xe về, bùn bê bết khắp người và xe.
Vốn sống thực tế phong phú ở nhiều vùng miền, những trải nghiệm chiến tranh ác liệt, đối diện với cái chết trong gang tấc, cảm nhận nỗi đau mất mát đến quặn lòng của nhân dân và bạn bè đồng nghiệp… những năm tháng viết báo gắn bó với từng nhịp thở cuộc sống và chiến đấu của dân tộc đã giúp nhà báo Trung Đông trở thành một cây viết xuất sắc những năm 1970 - 1980. Tình cảm ấp ủ và mong muốn nung nấu sáng tạo nên những tác phẩm sân khấu phác họa lại chân dung dân tộc trong những cuộc chiến mà ông từng lăn lộn ghi chép.
Các Tổng Biên tập báo Nhân dân khi đó có các nhà báo Hoàng Tùng, Hồng Hà, Hà Đăng, nhà báo Thép Mới đều ủng hộ nhà báo Trung Đông khi ông vừa công tác báo chí vừa sáng tác “tay ngang” các kịch bản sân khấu.Và ông đã rất thành công trong lĩnh vực này.
“Tuổi thơ của ba chị em mình gắn bó với những buổi tối đến nhà hát xem bố và đạo diễn dựng vở. Đó là cả một thế giới lung linh đặc biệt với ánh đèn sân khấu, các khung cảnh trang trí thay đổi sau mỗi màn diễn, giọng các diễn viên hội thoại các câu văn do bố mình viết, cả các ca từ trong các làn điệu cải lương và chèo do ông sáng tác” – nữ họa sĩ nghẹn ngào. “Khi đó mình còn bé, chưa hiểu hết ý nghĩa nhưng chỉ biết rằng những làn điệu đó thật ngọt ngào, mượt mà và ấm áp. Hàng tràng vỗ tay vang lên không ngớt khi những ca từ và làn điệu hay ngân vang”.
Vở cải lương "Dòng suối trắng" kể về mối tình oan nghiệt của một đôi trai gái người Mông trong bối cảnh cuộc chiến tranh biên giới năm 1979 do Đoàn cải lương Kim Phụng dàn dựng, NSND Ngọc Dư đạo diễn, đoạt giải Vàng Hội diễn sân khấu chuyên nghiệp toàn quốc năm 1980.
Nghệ sĩ Bích Hạnh của nhà hát Kim Phụng lúc đó là giọng hát được mến mộ đã vào vai nàng A Hoa đau khổ, có người yêu là A Sùng lại làm gián điệp cho địch, nàng đau khổ khóc tự sự một mình bên dòng suối trước khi bắn chết người yêu: “Suối ơi suối, hãy nói thật lòng mình đi, dù đó là điều đắng cay nhất” với những tiếng ngân nức nở làm rộ lên hàng tràng pháo tay khi diễn viên đang hát.
Vở diễn này vào thời điểm đó gây tiếng vang trong làng sân khấu khi được nhiều đoàn cải lương trong nước dựng lại. Với hơn một nghìn đêm diễn, mỗi đêm diễn tại rạp có từ 500 đến 600 khán giả, còn các đêm lưu diễn ngoài trời ở các sân bóng lên đến hàng nghìn người.
“Bố mình từng kể lại kỷ niệm khi đi cùng đoàn phóng viên viết bài ở Can Lộc, Hà Tĩnh. Tình cờ đi qua sân vận động thấy treo pano quảng cáo vở “Dòng suối trắng”, ông đã vào xem. Hôm đó thật đặc biệt. Khi nhân vật A Hoa diễn đến đoạn cao trào đau khổ và ngửa mặt lên trời than “Trời ơi! Trời có thấu được nỗi đau này chăng ?” thì trời nổi sấm chớp ầm ầm, giông tố nổi lên. Bố rất tâm đắc vì cảnh thiên nhiên như hòa vào vở diễn. Trời mưa to như trút nhưng không khán giả nào bỏ về, họ ngồi lại xem đến khi vở diễn kết thúc. Sau khi mọi người ra về là cảnh tượng nước mưa ngập sân vận động và hàng trăm dép tông nổi bồng bềnh”, nữ họa sĩ Thu Thủy nhớ lại.
Những kỷ niệm ấn tượng đó chính là phần thưởng vô giá đối với tác giả kịch bản sân khấu Trung Đông.
Các bài báo khi đó đánh giá vở diễn mang nội dung rất thời sự mà kịch bản giàu chất văn học, thấm đượm tinh thần lãng mạn. Thập niên 1980, hầu như năm nào nhà báo Trung Đông cũng viết kịch bản sân khấu mới. Ông viết hăng say và đam mê với cảm xúc sáng tạo tuôn trào. Khi đó Sân khấu và Điện ảnh là món ăn tinh thần chính của xã hội. Mỗi tối các gia đình nườm nượp kéo nhau đến nhà hát.
“Mình còn nhớ bố đã rất hồi hộp xem sự đón nhận của công chúng và giới phê bình sân khấu mỗi lần một vở mới được công diễn. Ông nở nụ cười tươi rạng rỡ khi những tràng pháo tay không ngớt vang lên. Chúng mình vô cùng tự hào về bố mỗi khi ánh đèn sân khấu rọi sáng tấm rèm nhung được kéo sang hai bên và giọng đọc giới thiệu vở diễn trần ấm vang lên nhắc tên tác giả kịch bản Nguyễn Trung Đông. Ở nhà, khi bố viết lời cho các làn điệu chèo và cải lương bố thường cất tiếng hát thành lời, nhắc đi nhắc lại các câu tâm đắc. Máu văn chương nghệ sĩ của bố truyền cho ba chị em mình chắc từ đó. Ông có nhiều đóng góp khi sáng tác lời mới mang tính văn học cho các làn điệu cải lương và chèo truyền thống”, nữ họa sĩ Thu Thủy kể.
Năm 1985, nhà báo Trung Đông viết kịch bản vở chèo “Đồng tiền Vạn lịch” cho đoàn chèo Hà Nội. Đây là một trong những tác phẩm sân khấu được chọn diễn tại Hội trường Ba Đình, phục vụ kỳ họp Quốc hội khóa VII, đã gây tiếng vang lớn vào thời điểm đó. Nhà báo Trung Đông viết vở chèo này dựa trên câu chuyện dân gian để nói về thói hư tật xấu của quan chức biến chất qua vai “ông quan đánh dậm” với sự đạo diễn tài tình của của đạo diễn Doãn Hoàng Giang. Vở diễn này được trình diễn hàng trăm suất ở rạp Đại Nam và cũng đoạt giải A Hội diễn sân khấu chuyên nghiệp toàn quốc năm 1985.
Một vở diễn nữa của nhà báo Trung Đông cũng đoạt giải A mà về sau là Giải Bông Sen Vàng của Hội diễn Sân khấu chuyên nghiệp toàn quốc, đó là vở cải lương "Hai phương trời thương nhớ", do đoàn cải lương Kim Phụng dàn dựng, NSND Ngọc Dư đạo diễn. Đó là câu chuyện về anh bộ đội tình nguyện Việt Nam chiến đấu ở chiến trường Campuchia.
"Khi đó, bố mình đã rất sáng tạo đưa ra sáng kiến dựng sân khấu ước lệ hai tầng để thể hiện hai không gian đồng hiện ở Việt Nam và Campuchia. Nắm bắt được ý tưởng của Nguyễn Trung Đông, họa sĩ sân khấu rất nổi tiếng khi đó là Doãn Châu đã thể hiện thành công sân khấu hai tầng lần đầu tiên xuất hiện trên sân khấu Việt", nữ họa sĩ Thu Thủy kể.
Trong suốt thập niên 1980 - 1990, thời hưng thịnh của sân khấu, bên cạnh tên tuổi lớn của Lưu Quang Vũ, nhà báo Nguyễn Trung Đông cũng là một trong những tác giả có nhiều vở diễn có tiếng vang.
Ngoài 3 vở đoạt giải nêu trên, về cải lương ông viết các vở như: " Miền đất nhớ", hợp tác với đạo diễn Sỹ Hùng; "Hòn đá thề" do Đoàn Cải lương Nam Định dựng; vở "Ly hôn" do Đoàn Cải lương Thái Bình dựng; vở "Mảnh đất anh nằm" do Đoàn Cải lương Sài Gòn và Đoàn Dân ca Nam Trung bộ do NSND Lê Thi làm trưởng đoàn dựng vở.
Ngoài sở trường cải lương, nhà báo Trung Đông viết hai vở chèo “Lương tâm nổi giận” và “ Đồng tiền Vạn lịch” cho đoàn Chèo Hà Nội. Ông còn viết cả kịch bản kịch nói “Bóng râm trong ngày nắng” cho Đoàn kịch nói Hà Nội, do đạo diễn Hoàng Quân Tạo dàn dựng. Hai vai chính trong vở do các diễn viên sau này rất nổi tiếng đóng là nghệ sỹ Hoàng Dũng và Hoàng Cúc. Vở có nội dung về không khí sản xuất ở vùng kinh tế mới Lâm Đồng, khuyến khích người lao động, với sự ví von "nếu ai cũng chỉ thích đứng trong bóng râm thì ai sẽ làm việc ngoài nắng".
Ngoài gần 20 kịch bản sân khấu, hàng ngàn bài báo, nhà báo Trung Đông còn viết 20 cuốn sách , trong đó 10 cuốn xuất bản ở NXB Quân đội và 10 cuốn xuất bản ở NXB Phụ nữ. Đó là những cuốn “Tiếng hát cánh buồm” viết về cuộc sống mới ở Hải Phòng , truyện ký “Mùa xuân Tây Nguyên” và tiểu thuyết “Gió ấm” viết về cuộc đấu tranh thu phục Fulro ở Tây Nguyên, “Những đỉnh núi thép” viết về cuộc Chiến tranh Biên giới năm 1979, “Trở về làng” và “Nông trường Đồng Dao” viết về công cuộc xây dựng đất nước sau giải phóng… Những trang viết của ông đầy ắp hiện thực cuộc sống và chiến đấu, niềm vui và đau khổ, niềm đam mê văn hóa các vùng miền, cháy bỏng tình yêu cuộc sống và con người.
Ngoài đời, ông vô cùng hiền hậu, vui tính, luôn thương yêu vợ con và các cháu, được đông đảo bạn bè đồng nghiệp quý mến. Họa sĩ Nguyễn Thu Thủy nghẹn ngào: "Chúng tôi luôn tự hào về bố và ông cũng tự hào về ba người con của mình đã tiếp tục nuôi dưỡng ngọn lửa say mê nghệ thuật để tạo nên những tác phẩm có ích cho xã hội".
Tối ngày 5/7, khi trời Hà Nội nổi giông tố và mưa lớn, nhà báo Nguyễn Trung Đông đã thanh thản ra đi, hưởng thọ 78 tuổi, để lại nỗi đau mất mát lớn cho gia đình, cho làng báo chí và sân khấu nước nhà. Nhưng tinh thần nhân văn nhân ái giàu tình cảm của nhà báo Nguyễn Trung Đông vẫn sống mãi trong các trang sách và trong các vở diễn của ông.
Nữ họa sĩ Thu Thủy chia sẻ, trong Thư viện Hà Nội có một thư mục sách lưu giữ đầy đủ các cuốn sách của tác giả Nguyễn Trung Đông. Nếu lên Google gõ tên vở cải lương "Dòng suối trắng" và vở chèo "Đồng tiền Vạn lịch" sẽ thấy hàng nghìn người yêu sân khấu truyền thống vẫn dõi theo các vở diễn của nhà báo Nguyễn Trung Đông.
Bài viết này như một nén tâm nhang tưởng nhớ nhà báo, nhà viết kịch, nghệ sĩ Nguyễn Trung Đông!