Viết về người thầy kính yêu, BS Lê Anh Tuấn chia sẻ:
"Nghe tin Thầy mất, dẫu biết rằng Thầy đã đạt ngưỡng đại thọ, nhưng trong lòng tôi vẫn cảm thấy bồi hồi, xúc động. Sự nghiệp xây dựng ngành Châm cứu Việt Nam và công cuộc đưa châm cứu Việt Nam ra thế giới của Thầy thì xin để các bậc cao nhân trong ngành tổng kết, chỉ xin ghi lại một số kỷ niệm nhỏ, như một nén tâm hương của một học trò từ phương xa…
Có lẽ tôi là một trong số rất ít người cùng thế hệ sinh viên trường Y được hân hạnh gặp Thầy từ rất sớm, cách đây gần 40 năm.
Đầu những năm 80 của thế kỷ trước, xã hội Việt Nam còn nhiều thiếu thốn về vật chất. Trong hoàn cảnh khó khăn đó, qua những chuyến đi trình diễn châm cứu thành công ở nước ngoài, chính GS. Nguyễn Tài Thu là người đã đem về những bộ đầu video cùng các bộ phim, và cho "công chiếu" tại hội trường của Viện Đông y (bây giờ là Bệnh viện Y học Cổ truyền Trung ương).
Việc làm này khi ấy giống như "đem ánh sáng văn hóa về vùng khó khăn" và tạo nên tiếng vang lớn. "Cùng đi sang Viện (Đông y) xem phim video’’ đã trở thành một kỷ niệm khó quên với rất nhiều người. Quả thực vậy, vì đó lần lần đầu tiên trong đời, rất nhiều người cả già trẻ lớn bé được biết thế nào là đầu máy video, được xem các bộ phim mầu trên màn hình ti vi khổ lớn, mà trước đó chỉ được biết những "công nghệ’’ này qua sách báo. Với lũ trẻ 8-9 tuổi như bọn mình lúc bấy giờ, đều là con em trong Tập thể Viện Đông y, chỉ dám nhìn Thầy từ xa, như nhìn ông tiên đã mang đến một điều kỳ diệu cho mọi người. Mà trông Thầy đẹp thật với khuôn mặt như "Tây" và mái tóc lúc nào được chải một cách cực kỳ lịch lãm.
Thầy cũng là người không bao giờ quên những bạn bè và đồng nghiệp cũ. Hàng xóm nhà mình có ông lương y về hưu và hành nghề châm cứu tại nhà. Dù chỉ làm việc với Thầy một số năm trước đó, nhưng ông cũng được Thầy tặng một "máy hẹn giờ’’ (timer), và nó rất hữu ích cho những người làm châm cứu, vì không phải thỉnh thoảng liếc đồng hồ xem đã hết giờ để rút kim ra chưa. Bây giờ thì máy này quá bình thường, nhưng cách đây ba bốn chục năm, trong hoàn cảnh thiếu thốn thì nó là một món quà nhiều ý nghĩa.
Khi tôi đã là sinh viên, đi thực tập tại Viện Châm cứu của Thầy, tôi được tận mắt chứng kiến việc Thầy luôn đứng ra bảo vệ những người yếu thế. Ví dụ như bệnh nhân nghèo không những được chữa bệnh miễn phí mà còn được bao ăn ở; sinh viên thực tập được được tạo điều kiện tối đa. Cán bộ nhân viên nào mà hơi ‘’lên mặt’’ với bệnh nhân nghèo hoặc với sinh viên thực tập là bị Thầy chấn chỉnh ngay.
Sau khi ra trường, tôi có được tham dự một buổi Thầy giới thiệu về châm cứu hỗ trợ cai nghiện ma túy. Tôi vẫn còn nhớ, vì đó là Hội nghị về cai nghiện ma túy nên có nhiều thành phần xã hội cùng tham dự. Trong khi có người gọi những người trẻ bị nghiện ma tuý là "chúng nó" thì Thầy thể hiện tính nhân văn rất cao khi gọi họ là "các cháu" và người nghe có thể cảm nhận được sự cảm thông lẫn niềm thương cảm thực sự của Thầy đối với những người trẻ đang vướng vào tệ nạn này.
Tôi là người học cùng lớp với con gái út của Thầy tại trường Y, càng ngưỡng mộ hơn khi thấy bạn rất khiêm tốn, với các ứng xử chừng mực, chứ không hề tỏ ra mình là con của một giáo sư đầu ngành. Có lẽ điều này là bởi bạn được ảnh hưởng từ nhân cách của cha, cũng là Thầy tôi.
Tôi cũng được vinh dự nghe thầy nói về cách giới thiệu châm cứu ra với phương Tây nói riêng và với thế giới nói chung. Thầy từng bảo phương Tây là khoa học thực nghiệm, là dựa vào các căn cứ cụ thể (evidence-based), cho nên khi giới thiệu châm cứu với họ mình phải dựa vào nguyên tắc đó mà thuyết trình thì mới thuyết phục được. Nếu cứ dịch nguyên văn "Âm dương ngũ hành" ra tiếng tây thì rất khó làm cho họ hiểu. Hồi còn ở Việt Nam, tôi có đi châm cứu, bấm huyệt cho người nước ngoài, và cũng áp dụng nguyên tắc này khi giải thích cho bệnh nhân, và nhờ đó công việc chữa bệnh thường được đánh giá cao hơn. Tôi cũng áp dụng cách tiếp cận này khi trình bày một bài giới thiệu khái quát về y học cổ truyền cho các đồng nghiệp nước ngoài tại Văn phòng WHO tại Hà Nội khoảng năm 2005, và cũng nhận được nhiều sự tán đồng nhất định.
Cũng đã từng được nghe Thầy kể sơ qua về những lần "đem chuông đi đánh xứ người", rồi cách Thầy "đấu trí" với các đồng nghiệp châm cứu đến từ Trung Quốc, tôi hiểu rằng cách tiếp cận của Thầy cũng khá giống với cách cha ông ta đánh giặc ngày trước, tức là "lấy yếu thắng mạnh, lấy ít địch nhiều, nhỏ mà có võ". Những ai có dịp gần gũi và được Thầy kể về những câu chuyện trên, chắc chắn có thể áp dụng những kinh nghiệm này không chỉ trong lĩnh vực Y học cổ truyền mà còn cả những lĩnh vực khác mỗi khi cần "đi ra biển lớn".
Lần cuối cùng tôi được gặp thầy là vào khoảng năm 2008- 2009. Thầy bảo tôi: "Chú sắp sang Mexico giảng bài, nhưng vì tuổi cao rồi, nên cần phải nghỉ một ngày tại Paris, rồi mới đi tiếp". Không chỉ với các bạn trung niên và ngay cả với các bạn trẻ, Thầy hay xưng "chú" một cách thân mật như vậy. Một số người nói Thầy có tài "ngoại giao" nên mới được nổi tiếng như thế, nhưng với tôi, Thầy là một người thực sự có tâm và có tài, vì nếu không có những cái đó thì không thể để lại được một gia sản về châm cứu đồ sộ như thế.
Được biết Thầy ra đi thanh thản, và hưởng đại thọ ở tuổi 91. Tôi cầu mong Thầy sớm được yên nghỉ. Dù thầy đã khuất xa nhưng Thầy sẽ vẫn luôn dõi theo ngành châm cứu nói riêng và ngành Y học cổ truyền của nước nhà".